Đái tháo đường, còn gọi là bệnh tiểu đường, là một nhóm bệnh rối loạn chuyển hóacacbohydrat, mỡ và protein khi hoóc môninsulin của tụy bị thiếu hay giảm tác động trong cơ thể, biểu hiện bằng mức đường trong máu luôn cao; trong giai đoạn mới phát thường làm bệnh nhân đi tiểu nhiều, tiểu ban đêm và do đó làm khát nước.Bệnh tiểu đường là một trong những nguyên nhân chính của nhiều bệnh hiểm nghèo, điển hình là bệnh tim mạch vành, tai biến mạch máu não, mù mắt, suy thận, liệt dương, hoại tử,…
I. Bệnh tiểu đường có hai thể bệnh chính
- Loại 1 (Type 1, Juvenile diabetes) hay còn gọi là tiểu đường tuyp 1
Khoảng 5-10% tổng số bệnh nhân bệnh tiểu đường thuộc loại 1 (type 1 diabetes), phần lớn xảy ra ở trẻ em và người trẻ tuổi (dưới 20 tuổi). Các triệu chứng thường khởi phát đột ngột và tiến triển nhanh nếu không điều trị.
Bệnh tiểu đường type 1 do sự bất thường tế bào tuyến tụy làm giảm tiết hormone insulin (có chức năng kích thích tế bào hấp thụ, sử dụng glucose huyết và kích thích gan polymer chuyển hóa glucose thành glycogen, từ đó làm giảm lượng đường huyết) trong khi tế bào đích của insulin không có hiện tượng kháng insulin , đặc trưng bởi sự giảm nhạy cảm hoặc hư hỏng thụ thể tiếp nhận insulin, Insulin receptor).
Thông thường, bệnh đái tháo đường type 1 thường có nguyên nhân do di truyền. Nó thường xuất hiện đột ngột và diễn biến nhanh ở trẻ em. Tuy nhiên, cũng có một số trường hợp bệnh xuất hiện tương đối muộn, ở người trưởng thành, gọi là bệnh đái tháo đường tiềm ẩn tự miễn ở người trưởng thành LADA hoặc bệnh đái tháo đường type 1.5. 80% người mắc bệnh LADA được chẩn đoán nhầm sang đái tháo đường type 2.
Nguyên nhân
Nguyên nhân của bệnh đái tháo đường type 1 chưa hoàn toàn được sáng tỏ. Dưới đây trình bày 02 nguyên nhân chính của bệnh đái tháo đường type 1.
Nguyên nhân di truyền (Hiện tượng tự miễn)
Phần lớn bệnh đái tháo đường do hiện tượng tự miễn. Theo thống kê, cho thấy, bất thường ở hơn 50 loại gen khác nhau có thể gây ra bệnh tiểu đường type 1. Trong đó, phổ biến nhất là do đột biến ở locus IDDM1 (mã hóa cho protein HLA-DQ (nó là αβ heterodimer của phức hệ MHC II). Phức hệ MHC II xuất hiện trên bề mặt các tế bào trình diện kháng nguyên (APC, antigen presenting cell). Đột biến gen HLA-DQ làm hoạt động của MHC II bất thường. Khi một MHC-II trình diện mảnh kháng nguyên lạ (trong trường hợp này là các mảnh kháng nguyên như glutamic acid decarboxylase GAD, phosphatase, kênh tải kẽm (Zinc transporter)… của tế bào beta) sẽ kích thích tế bào lympho T hỗ trợ (TH) đến tiếp xúc, gắn với nó. Tế bào (TH) sẽ được hoạt hóa và tăng sinh, từ đó kích thích tế bào lympho B biệt hóa thành các tương bào (plasma cell) và sản sinh các tự kháng thể (autoantibody) kháng các protein trong tế bào. Hậu quả là tế bào beta giảm hoặc mất khả năng tiết insulin.
Nguyên nhân môi trường
Một số hóa chất có khả năng phá hủy tế bào beta tụy, làm xuất hiện đái tháo đường type 1.
- Chất pyrinuron được sử dụng để diệt chuột. Chúng phá hủy tế bào beta đảo Langerhans, từ đó gây tiểu đường type 1. Thuốc này đã bị cấm lưu hành ở Mỹ bởi Cục bảo vệ Môi sinh Hoa Kỳ (Environment Protection Agency).
- Chất streptozotocin (STZ) phá hủy DNA tế bào đảo Langerhans và cũng gây tiểu đường type 1.
Nhiễm toan ketone do đái tháo đường
Do tế bào không thể hấp thụ và sử dụng glucose làm nguồn năng lượng tế bào nên cơ thể buộc phải oxy hóa (oxy hóa beta) một số chất béo ở mô mỡ (Adipose tissue) thành thể ketone (acetoacetate, 3-hydroxybutyrate), 3-hydroxybutyrate là nguồn năng lượng cho tế bào thay thế glucose. Tuy nhiên, các thể ketone có tính acid nên làm cho máu nhiễm toan, đây là hiện tượng nhiễm toan ketone do đái tháo đường (DKA, diabetic ketoneacidosis). Do đó, cơ thể buộc phải cân bằng pH máu. Một trong số đó là cơ thể tăng cường nhịp và độ sâu hô hấp (kiểu thở Kussmaul) để tăng thải CO2 (chất gây ra tính toan cho máu). Thường DKA hay xảy ra ở bệnh nhân type 1 hơn là type 2.
2. Loại 2 (Type 2) tiểu đường tuyp 2
Bệnh tiểu đường loại 2 chiếm khoảng 90 – 95 % trong tổng số bệnh nhân bệnh tiểu đường, thường gặp ở lứa tuổi trên 40, nhưng gần đây xuất hiện ngày càng nhiều ở lứa tuổi 30, thậm chí cả lứa tuổi thanh thiếu niên. Bệnh nhân thường ít có triệu chứng và thường chỉ được phát hiện bởi các triệu chứng của biến chứng, hoặc chỉ được phát hiện tình cờ khi đi xét nghiệm máu trước khi mổ hoặc khi có biến chứng như nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não; khi bị nhiễm trùng da kéo dài; bệnh nhân nữ hay bị ngứa vùng kín do nhiễm nấm âm hộ; bệnh nhân nam bị liệt dương.
Ngoài ra còn có thêm bệnh tiểu đường do thai kì
Tỷ lệ bệnh tiểu đường trong thai kỳ chiếm 3 – 5 % số thai nghén; phát hiện lần đầu tiên trong thai kỳ.
II. Triệu chứng
Do tế bào không nhận được glucose nên tế bào hiểu rằng “cơ thể đang thiếu đường” do đó bằng đường liên hệ ngược, cơ thể buộc phải depolymer hóa glycogen thành glucose (glycogenolysis) để tăng lượng đường trong máu. Kết quả làm nồng độ glucose huyết cao và làm tăng áp suất thẩm thấu của máu. Điều này khiến nước theo gradient nồng độ khuếch tán vào máu làm tăng khối lượng máu và tăng huyết áp. Mặt khác, do nồng độ glucose cao nên tănghàm lượng glucose lắng đọng vào hemoglobin (tạo Hb1AC), vì thế người ta có thể xét nghiệm nồng độ Hb1AC để chẩn đoán đái tháo đường.
1.Tiểu nhiều
- Do nồng độ glucose huyết cao, nên nồng độ glucose trong nước tiểu đầu cao. Nồng độ này vượt quá ngưỡng glucose thận nên một phần glucose không được tái hấp thu ở ống lượn gần (proximal convoluted tubule). Vậy nên, glucose xuất hiện trong nước tiểu (đây là nguồn gốc của tên “Tiểu đường”). Lại có, nồng độ glucose nước tiểu cao làm tăng áp suất thẩm thấu nước tiểu. Vì thế, nước khuếch tán vào nước tiểu làm tăng khối lượng nước tiểu chính thức, gây tiểu nhiều (polyuria) làm cơ thể mất nước (dehydration). Sự mất nước làm tăng áp suất thẩm thấu trong cơ thể kích thích vùng dưới đồi gây ra cảm giác khát nước (polydipsia).
- Lượng nước tiểu thường từ 3 – 4 lít hoặc hơn trong 24 giờ, nước trong, khi khô thường để lại vết bẩn hoặc mảng trắng.
- Tiểu dầm ban đêm do đa niệu có thể là dấu hiệu khởi phát của đái tháo đường ở trẻ nhỏ.
2. Ăn nhiều
Cơ thể không thể sử dụng đường để cung cấp năng lượng làm cho bệnh nhân nhanh đói chỉ sau bữa ăn một thời gian ngắn.
3. Uống nhiều
Mất nước làm kích hoạt trung tâm khát ở vùng hạ đồi, làm cho bệnh nhân có cảm giác khát và uống nước liên tục.
4.Gầy nhiều
Dù ăn uống nhiều hơn bình thường, nhưng do cơ thể không thể sử dụng glucose để tạo năng lượng, buộc phải tăng cường thoái hóa lipid và protid để bù trừ, làm cho bệnh nhân sụt cân, người gầy còm, xanh xao. Với bệnh nhân đái tháo đường loại 2 thường không có bất kỳ triệu chứng nào ở giai đoạn đầu và vì vậy bệnh thường chẩn đoán muộn khoảng 7 – 10 năm (chỉ có cách kiểm tra đường máu cho phép chẩn đoán được ở giai đoạn này).
III. Phòng và chống bệnh tiểu đường
- Luôn theo dõi tình trạng bệnh
Những người bị bệnh nên có sẵn máy đo đường huyết cá nhân tại nhà để có thể tiện việc theo dõi bệnh tình. Nếu thấy có những chuyển biến bất thường thì nên đến ngay bác sĩ, không nên tự điều trị.
2. Lối sống và thái độ ăn uống
Vạn bệnh tại miệng, việc thay đổi thói quen dinh dưỡng, lối sống lành mạnh giúp bạn kiểm soát và duy trì tình trạng bệnh của mình tốt hơn. Những điều chỉnh lối sống người bệnh tiểu đường cần tuân theo để kiểm soát bệnh:
3. Chế độ ăn uống
Dùng các thực phẩm có nhiều chất xơ phóng thích chậm đường giúp giữ lượng đường huyết trong máu tăng chậm bởi vì chúng được tiêu hóa chậm hơn, do đó ngăn ngừa cơ thể sản xuất quá nhiều insulin. Nó cũng cung cấp năng lượng lâu dài và giúp bạn no lâu hơn.
Sau đây là 8 nguyên tắc ăn uống trong bệnh đái tháo đường
- Ăn nhiều rau không tinh bột, đậu, trái cây (táo, lê, đào, quả mọng, chuối, xoài, đu đủ) là các thực phẩm có chỉ số đường huyết thấp là sự lựa chọn tốt cho đồ ăn tráng miệng.
- Ăn các loại ngũ cốc tự nhiên ít chế biến sẵn: Hãy ăn uống khoa học và chế biến theo kiểu cổ truyền và không nên ăn đồ ăn chế biến sẵn.
- Hạn chế khoai tây trắng và các sản phẩm ngũ cốc tinh chế như bánh mì trắng và mì sợi trắng.
- Hạn chế đồ ngọt tập trung bao gồm các loại thực phẩm có hàm lượng calo cao chẳng hạn như kem. Giảm nước ép trái cây không nhiều hơn một ly một ngày. Hoàn toàn loại bỏ các đồ uống có đường ngọt.
- Ăn lành mạnh của một loại protein ở hầu hết các bữa ăn, chẳng hạn như cá, đậu, hoặc thịt gà không da.
- Chọn các loại thực phẩm với chất béo có lợi cho sức khỏe như dầu ô liu, bơ, dầu thực vật rất tốt cho người tiểu đường. Hạn chế chất béo bão hòa từ sữa và các sản phẩm khác từ động vật. Loại bỏ hoàn toàn các chất béo trong đồ ăn nhanh và chế biến sẵn.
- Có ba bữa ăn chính và một hoặc hai bữa ăn nhẹ mỗi ngày. Đặc biệt không bỏ bữa sáng.
- Ăn chậm và dừng lại khi thấy vừa đủ.
4. Kiểm soát cân nặng
Giảm cân là mục tiêu quan trọng cho người bệnh tiểu đường (đặc biệt là tiểu đường type 2). Béo phì làm tăng lượng đường huyết và kháng với insulin. Chương trình giảm cân thích hợp ngăn ngừa sự gia tăng các biến chứng do béo phì như huyết áp cao, bệnh tim mạch.
5. Liệu pháp thư giãn
Stress và lo âu cũng có thể khiến bạn có nguy cơ bị tiểu đường cao hơn. Stress làm tăng sự giải phóng hormone tuyến yên ACTH, từ đó thúc đẩy giải phóng hormone cortisol từ tuyến thượng thận, còn được gọi là hormone stress, ảnh hưởng gián tiếp tới lượng đường huyết trong cơ thể.
6. Ngủ đều đặn
Thiếu ngủ có thể làm tăng lượng đường huyết và tăng sản sinh hormone stress cortisol. Để tránh điều này hãy duy trì giấc ngủ đều đặn liên tục 7 – 8 giờ.
7. Ngừng hút thuốc
Các sản phẩm thuốc lá có thể ảnh hưởng tới việc lưu thông máu trong cơ thể. Tuần hoàn máu bị ảnh hưởng có thể ảnh hưởng tới bệnh tiểu đường và gây hậu quả nghiêm trọng.
8. Vận động
Nên tập luyện thường xuyên. Theo các nghiên cứu, những bệnh nhân tiểu đường thường xuyên tập luyện ít có khả năng bị các biến chứng như đột quỵ và đau tim.
9. Thuốc điều trị theo chỉ định của bác sỹ
10. Sử dụng thực phẩm bổ xung
Bệnh nhân không chết vì tiểu đường mà chết vì biến chứng của bệnh tiểu đường. Việc hấp thụ dinh dưỡng và yêu cầu kiêng khem của người bệnh tiểu đường khá khắt khe để đảm bảm duy trì chỉ số đường huyết ổn định nên người bệnh nên sử dụng một số loại thực phẩm bổ xung dinh dưỡng giúp tặng cường hệ miễn dịch tự miễn của cơ thể.
Đặc biệt hiện nay trên thế giới đã ứng dụng rất thành công công nghệ tế bào gốc để giúp bệnh nhân tiểu đường có thể cải thiện sức khỏe một cách rõ rệt, hàng triệu người trên thế giới khi được áp dụng điều trị bằng phương pháp tế bào gốc đã có thể chữa lành bệnh của mình
Để được tư vấn miễn phí xin vui lòng đăng ký tại đây
III. Biến chứng bệnh tiểu đường
Bệnh tiểu đường khi biến chứng có thể để lại những hậu quá nghiêm trọng cho bệnh nhân. Là nguyên nhân gây ra các bệnh như
- Toan xêtôn do đái tháo đường
- Suy thận
- Bệnh võng mạc
- Hoại thư
- Nhiễm trùng
- Loét bàn chân
- Mù